QUY SƠN CẢNH SÁCH GIẢNG GIẢI - HT THÍCH THANH TỪGiảng Giải: Thích Thanh Từ Nhà Xuất Bản: Tôn Giáo Số Trang: 136 Trang Hình Thức: Bìa Mềm Khổ Sách: 14,5x20,5cm Năm Xuất Bản: 2019 Độ Dày: 0,8cmQSGGTHÍCH THANH TỪ30.000đSố lượng: 30 Quyển
Lời Đầu Sách Luận Giải “Quy Sơn Cảnh Sách” của Tổ QuySơn Linh Hựu được Hòa thượng Viện chủ Tu việnChân Không giảng cho tân Thiền sinh bổn việnkhóa II tại Tu viện Chân Không. Chúng tôi thấy lờichỉ dạy sách tấn của Tổ trong luận cũng như lờigiảng giải của Hòa thượng trong buổi giảng rấtquan yếu, vừa hợp với lý đạo vừa hợp với căn cơ củangười tu Phật, nhứt là thiền sinh mới vào cửaThiền. Nên chúng tôi ghi lại thành sách, để làm tàiliệu nghiên cứu tu tiến.Sau khi ghi xong, có một Phật tử xin ấn tốngtập sách này. Chúng tôi trình lên Hòa thượng. Hòathượng xem và cho phép in để làm tài liệu chothiền sinh tu học. Vì ghi lại lời giảng, nên tập“Quy Sơn Cảnh Sách Giảng Giải” không tránhkhỏi những sơ sót nhứt là phần hình thức. Mongquý vị thông cảm cho. Ngày 9 tháng 2 năm 1993 Thiền Thất Trúc Lâm
Qui Sơn Cảnh Sách Quyển Qui Sơn Cảnh Sách là một quyển luận của Thiền sư Linh Hựu. Do Ngàiở tại núi Qui, người đương thời nể trọng đức hạnh không dám gọi tên, nên dùngtên núi để gọi Ngài; vì vậy Ngài có tên là Qui Sơn. Quyển luận này nhằm mụcđích nhắc nhở người xuất gia phải nổ lực tu hành, để được giải thoát nên được đềtựa là Cảnh Sách; “Qui Sơn Cảnh Sách” là luận Cảnh Sách của Ngài Qui Sơn.Đây là bộ luận mà trong thiền môn nói riêng, giới xuất gia nói chung, coi nhưkinh của Phật. Thế nên ai xuất gia vào chùa, trong thời gian đầu học làm Sa Di,đều phải học thuộc lòng ba quyển gọi là Phật Tổ Tam Kinh; Kinh Tứ Thập NhịChương, Kinh Di Giáo, Qui Sơn Cảnh Sách.
Hai quyển đầu là lời Phật dạy được gọi là kinh thì đúng. Quyển Cảnh Sách củaNgài Qui Sơn đáng lý phải gọi là luận, tại sao lại gọi là kinh? Các vị thuở xưa thấylời chỉ dạy sách tấn của Ngài rất thiết yếu, vừa thích hợp với chân lý, vừa phù hợpvới căn cơ mọi người, nên các vị xem như lời Phật dạy, vì vậy mà gọi là kinh.Quyển Qui Sơn Cảnh Sách đối với tất cả những người xuất gia còn trẻ, trong thờitập sự đã phải học thuộc lòng rồi. Nhưng hôm nay tôi đem ra giảng, vì đây là tácphẩm của một thiền sư (Tổ Qui Sơn) thuộc đời thứ tư sau Lục Tổ:
1. Nam Nhạc Hoài Nhượng 2. Mã Tổ Đạo Nhất 3. Bá Trượng Hoài Hải 4. Qui Sơn Linh Hựu
Ngài sinh năm 771 tịch năm 853. Quyển sách này ra đời vào khoảng cuối thế kỷthứ tám hoặc đầu thế kỷ thứ chín. Ngài giáo hóa trên núi Qui, nơi đây có hơn 1500thiền sinh qui tụ tu tập, nên Ngài có lời cảnh sách để răn nhắc chung toàn chúng.Lời Ngài chẳng những có giá trị về đạo lý, mà còn có giá trị về văn chương, nênđược trong thiền môn dùng để sách tấn toàn thể Tăng Ni. Bởi có giá trị như thế nênsau này có nhiều nhà giải thích:
Đời Tống, Ngài Thủ Toại chú đề tựa là “Qui Sơn Cảnh Chú” (1 quyển)
Đời Minh, Ngài Đạo Bá giải đề tựa là “Qui Sơn Cảnh Sách Chỉ Nam” Quyểnnày nằm trong bộ Phật Tổ Tam Kinh (1 quyển)
Đời Minh, Ngài Hoàng Tán chú, Ngài Khai Quýnh ký, đề tựa là “Qui SơnCảnh Sách Cú Thích Ký” (2 quyển). Tập sách này được các chùa đặc biệt dùng, vìcho lời giải của hai vị này đầy đủ nhất.
Đời Minh, Ngài Đại Hương chú giải đề tựa là “Cảnh Sách Chú” (1 quyển).
Dịch từ Hán sang Việt, có các vị:
Hòa Thượng Hành Trụ dịch từ quyển “Qui Sơn Cảnh Sách Cú Thích Ký”của Ngài Hoàng Tán và Khai Quýnh.
Pháp sư Kiểu dịch bản “Qui Sơn Cảnh Sách Chỉ Nam” của Ngài Đạo Bá.
Hòa Thượng Trí Quang dịch đề tựa là “Qui Sơn Cảnh Sách Văn” in trong tậpluật Sa di và Sa di ni.
Thầy Hoàn Quan dịch trong Phật Tổ Tam Kinh.
Chánh văn “Qui Sơn Cảnh Sách” vừa cô đọng vừa có âm điệu, nên ở đây tôigiảng chánh văn để quí vị thấy giá trị văn chương và ý nghĩa cô đọng trong lờiNgài dạy.Trước giải thích tên luận.
Qui Sơn Cảnh Sách “Qui Sơn” là ngọn núi Qui, nơi Thiền Sư Linh Hựu giáo hóa bốn chúng. “CảnhSách” . Cảnh là đánh thức những người đang mê chưa ngộ. Người tu chúng ta tuyđã phát tâm xuất gia học đạo, song còn mê say trong dục lạc, thường quên lãngviệc tu hành. Nên Ngài dùng phương tiện đánh thức chúng ta nhớ lại bổn phận vàtrách nhiệm của người xuất gia để nổ lực tiến tu, đó là cảnh. Sách nghĩa là roi da.Thường người cỡi ngựa muốn cho ngựa chạy nhanh, dùng roi da tróc tróc cho nóchạy. Cũng vậy, muốn sách tấn thúc đẩy người ta cũng phải dùng lời để răn nhắccho tiến. Tông chỉ của bộ luận này, chủ yếu của Tổ là đánh thức người tu chúng tanổ lực tiến tới chổ cứu cánh của người xuất gia.
Chánh Văn: “Phù nghiệp hệ thọ thân , vị miển hình lụy. Bẩm phụ mẫu chi dithể, giả chúng duyên nhi cộng thành. Tuy nãi tứ đại phù trì, thườngtương vi bội. Vô thường lão bịnh bất dữ nhân kỳ. Triêu tồn tịchvong, sát na dị thế. Thí như xuân sương, hiểu lộ, thúc hốt tức vô;ngạn thọ, tỉnh đằng, khởi năng trường cửu. Niệm niệm tấn tốc, nhấtsát na gian, chuyển tức tức thị lai sanh. Hà nãi yến nhiên khôngquá?”.
Dịch: Bởi do nghiệp trói buộc mà có thân, tức chưa khỏi khổ lụy về thân. Bẩm thụtinh cha huyết mẹ, tạm mượn các duyên hợp thành. Tuy nhờ tứ đại giữ gìn, nhưngchúng thường trái nghịch.
Giảng: Vô thường, già, bịnh chẳng hẹn cùng người. Sáng còn tốimất, chỉ trong khoảng sát na đã qua đời khác. Ví như sương mùa xuân, mốc sángsớm, phút chốc liền tan. Cây bên bờ vực, dây trong miệng giếng há được lâu bền.Niệm niệm qua nhanh, chỉ trong khoảng sát na, chuyển hơi thở đã là đời sau, saolại an nhiên để ngày tháng trôi suông vô ích?.“Phù nghiệp hệ thọ thân, vị miển hình lụy”. Do nghiệp trói buộc lôi cuốn nênchúng ta phải thọ nhận thân này. Sau khi thọ nhận thân này rồi thì sao? “Vị miểnhình lụy”, tức chưa khỏi được cái khổ lụy về thân. Ngài nói có sự trùng hợp vớiLão Tử: “Ngô hữu đại hoạn vị ngô hữu thân”, vì ta có thân nên có họa lớn. Lão Tửthấy do có thân nên có họa, song chưa nói đến nguyên do nào mà có thân.
Tổ QuiSơn nhìn theo con mắt của nhà tu Phật. Ngài thấy thân chúng ta sở dĩ có đây khôngphải ngẫu nhiên mà có, mà là do nghiệp chướng buộc lôi kéo chúng ta ra đây thìkhông thể nào tránh khỏi đau khổ. Đó là Ngài chỉ rõ nguyên nhân của sự đau khổkhi mang thân này. Nhưng tại sao nghiệp lôi mình được và sao mình dại dột để chonghiệp lôi? Vấn đề này tôi sẽ dẫn vài thí dụ nhỏ để quý vị thấy. Đây là chúng tatìm tột cùng cái nguyên nhân thuở trước, khi chúng ta chưa có thân này, do cái gìthúc đẩy lôi cuốn chúng ta có thân? “ Cái thúc đẩy lôi cuốn” trong nhà Phật gọi là“nghiệp”. Nhưng nó lôi cuốn bằng cách nào? Kinh Phật nói, con người có banghiệp là thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp. Thân, miệng, ý tạo tác thànhnghiệp rồi, thì nghiệp thúc đẩy lôi cuốn chúng ta phải thọ thân sau và tùy theonghiệp thiện hay ác mà dẫn chúng ta đến chỗ tốt hay xấu.
Vậy nghiệp là gì?Nghiệp là động tác của thân, miệng, ý; động tác ấy lập đi lập lại nhiều lần thànhthói quen, và khi đã thành thói quen, thì nó có sức mạnh chi phối, dắt dẫn conngười theo nó. Với mắt phàm tục thì không thấy biết nghiệp, nhưng đối với bậcthánh giả thì thấy có bạch nghiệp và hắc nghiệp. Nên khi nhìn người, bậc thánhgiả biết người ấy có chủng nghiệp lành hay dữ. Do trước kia tạo nghiệp lành haydữ, khi sanh thân hoặc khổ hoặc vui; đó là nói theo tương đối thế gian. Còn nóitheo đây thì dù cho thân sang hèn nghèo giàu gì cũng đều khổ hết, đó là tinh thầnkhổ đế của đạo Phật. Như vậy, do tạo nghiệp mà phải thọ thân sau, nên quí vịkhông lấy làm lạ, khi nghe các vị tu hành đắc đạo nói quá khứ, vị lai của một ngườinào đó, là do mắt huệ của các Ngài thấy được thiện nghiệp hay ác nghiệp của vịđó, và cũng không làm lạ đối với những nhà tướng số, căn cứ trên phước tướngnhiều ít mà đoán đúng hậu vận của con người.
Thế nên nhiều người cho rằng mìnhcó sẵn số mạng như thế nên thầy coi trúng. Nhưng trúng với ai và trật với ai? Chỉtrúng với những người dung thường, khi sanh ra họ cứ theo nghiệp cũ mà sống,không biết chuyển đổi nghiệp. Nhưng đối với những người hơi phi thường thì sốmạng có đổi; chẳng hạn như những người xuất gia. Tử vi của mọi người chungchung là lớn lên lập gia đình có con cái, có chức phận v.v… Nhưng với ngườikhoảng 15 tuổi xuất gia thì không có gia đình, không có con, không có chức phận,như vậy là đã cải số rồi. Nếu cho số mạng là cái định sẵn mà mọi người phải y theođó để sống, không thể chuyển đổi thì quá lầm lẫn. Nghiệp có thể chuyển được,chuyển từ nghiệp dữ thành nghiệp lành và ngược lại. Thế nên có lắm người trướcthì say mê trong dục lạc, sau bừng tỉnh xa lìa dục lạc trở thành người cao thượng,và cũng có người tốt, gặp duyên bạn bè hư đốn quyến rủ chạy theo làm điều xấuác.
Nói đến nghiệp là nói đến động tác của thân, khẩu, ý và động tác ấy có thểchuyển đổi từ xấu trở thành tốt và từ tốt trở thành xấu. Nay nên biết nghiệp chi phối lôi kéo con người như thế nào? Thí dụ một ngườicó thói quen mở radio nghe nhạc, vào mỗi tối lúc 8 giờ, đêm nào cũng thế, thànhthói quen. Bỗng một hôm radio hư không nghe được nhạc, người ấy cảm thấy buồnbuồn, ngay lúc đó nhà hàng xóm mở radio, thói quen thúc đẩy người ấy tìm tới đểnghe nhạc. Thói quen (nghiệp) không có hình tướng nhưng có sức mạnh thúc đẩy,chi phối con người làm theo nó. Đó là thói quen của tai. Bây giờ là thói quen củamiệng, có người khi nghe nhạc thì miệng huýt sáo ca hát, tay chân nhịp theo điệunhạc. Một hôm đến chỗ trang nghiêm. Lý đáng phải ngồi nghiêm chỉnh, nhưngngồi một hồi cảm thấy buồn bèn nhịp đùi huýt sáo, vì đã thành thói quen rồi. Còncó những thói quen tệ hơn nữa là hút thuốc, ăn trầu, uống rượu, hút á phiện v.v…
Vậy động lực nào bắt con người hút thuốc, ăn trầu, uống rượu? Có phải tại thóiquen chăng? Thói quen trở thành tập nhiễm và có sức mạnh thôi thúc khiến conngười làm theo nó. Nhà Phật gọi đó là nghiệp, chính nghiệp mình tạo rồi trói buộcvà mình đi thọ sanh mà mình không hay biết, tưởng lý do này lý do kia bắt mìnhsinh ra đời, bắt mình chịu khổ. Tất cả chỉ là cái duyên bên ngoài, mà động lựcchính là nghiệp lành hay nghiệp dữ khiến cho mình khổ hay vui. Điều mà mọingười phải ghi nhớ là thân không tạo nghiệp ác mà tạo nghiệp thiện, miệng khôngnói lời hung dữ mà nói lời lành, ý không nghĩ ác mà nghĩthiện; cứ như thế màchuyển nghiệp thì mình làm chủ được mình không bị nghiệp sai sử.
Và chúng ta cóđủ can đảm, đủ sức mạnh xây dựng, sắp đặt cho cuộc sống ngày mai của chínhmình và chịu đựng những gì xảy đến, mà không than trách ai cả. Nếu không hiểunhư thế cứ để cho dòng định mệnh lôi cuốn tới đâu thì tới. Người hiểu rõ nghiệp vàbiết tu thì phải gắng mà chuyển nghiệp, người tu là những con thuyền vững lái, giómặc gió, nước mặc nước, chúng ta cứ nhắm đích mà tiến, chớ để gió dập nướccuốn. Nói đến nghiệp là nói đến sức mạnh tự chủ, không phải là thái độ yếu đuốiphó mặc cho số mệnh, để rồi việc không xong, hỏng thì đổ thừa cho nghiệp.
Đây, Tổ Qui Sơn chỉ cho chúng ta thấy cái nhân có thân này là do nghiệp, hoặcnghiệp lành nghiệp dữ; nếu thọ thân trong cảnh tốt được sung sướng an vui là dotạo nghiệp thiện, còn thọ thân trong cảnh xấu chịu khổ đau là do tạo nghiệp ác.Biết được khổ vui là do nghiệp mình tạo, để gan dạ chịu, không than oán khi gặpkhổ, và cố gắng chuyển nghiệp ác thành nghiệp thiện, nếu ta còn luân hồi. Hoặcgan dạ cắt dứt mọi trói buộc của nghiệp để được tự tại trong tam giới, đó là tu.Ngược lại biết rõ nghiệp, mà vẫn đầu hàng, phó mặc cho nó chi phối lôi trì, làkhông biết tu vậy. Còn taọ nghiệp là phải thọ thân, mà có thân thì khổ, vì thân nàyvô thường hoại diệt, dù là vua chúa hay ăn mày cũng không thoát khỏi vô thường,nên gọi là hình lụy. Có thân là có đủ các nỗi khổ nào là sanh, già, bịnh, chết,thương yêu xa lìa, thù oán gặp gỡ…