PHÁT KHỞI BỒ TÁT THÙ THẮNG CHÍ NHẠO KINH - PHÁP SƯ TỊNH KHÔNG GIẢNGGiảng: Pháp Sư Tịnh Không Dịch: Như Hòa (Bửu Quang Tự) Nhà Xuất Bản: Hồng Đức Số Trang: 319 Trang Hình Thức: Bìa Mềm Khổ Sách: 21x29cm Độ Dày: 1,5cm Năm Xuất Bản: 2014PKBTPHÁP SƯ TỊNH KHÔNG60.000đSố lượng: 20 Quyển
PHÁT KHỞI BỒ TÁT THÙ THẮNG CHÍ NHẠO KINH - PHÁP SƯ TỊNH KHÔNG GIẢNG
Giảng: Pháp Sư Tịnh Không Dịch: Như Hòa (Bửu Quang Tự) Nhà Xuất Bản: Hồng Đức Số Trang: 319 Trang Hình Thức: Bìa Mềm Khổ Sách: 21x29cm Độ Dày: 1,5cm Năm Xuất Bản: 2014
I. GIẢNG KINH DUYÊN KHỞI Chư vị đại đức đồng tu! Ngày hôm nay nhân duyên thù thắng phi thường: Nghi thức xuất gia của nhà Phật được cử hành vào giờ Ngọ. Sau khi nghi thức hoàn tất, theo thông lệ là cúng Phật. Nghi thức chúng ta cử hành hôm nay vào thời khắc này có ý nghĩa chẳng tầm thường, có quan hệ thật sự hết sức mật thiết đối với bản kinh này. Đức Thế Tôn đã giảng cho chúng ta một bộ kinh, nói theo ngôn ngữ hiện thời, thì từ ba ngàn năm trước Ngài đã biết trước trong thời hiện tại, hàng tại gia, xuất gia dù tu học theo một pháp môn nào, Hiển Giáo, Mật Giáo, Tông Môn, Giáo Hạ, cho đến Tịnh Độ đều chẳng thể thành tựu.Nguyên nhân rốt cuộc là do đâu?
Đức Di Lặc Bồ Tát hết sức từ bi, thay mặt chúng ta khải thỉnh, mong Thế Tôn chỉ dạy tường tận cho chúng ta. Nếu như chúng ta thật sự có thể chiếu theo lời răn dạy trong kinh này, chú tâm thấu hiểu, phản tỉnh, sửa lỗi, đổi mới, quay đầu về bờ, được như thế thì pháp mình tu, hạnh mình hành trong một đời sẽ nhất định thành tựu. Đấy chính là nhân duyên giảng kinh lần này của chúng tôi. Do thời gian hữu hạn, nên trong lần này, chúng tôi chỉ chọn lấy những điểm trọng yếu trong kinh văn để giới thiệu, quý vị xem nhiều lần sẽ hiểu được, còn như những danh từ, thuật ngữ thường được giảng tại giảng đường, chúng tôi đều tỉnh lược cả.
II. BẢO TÍCH - PHÁP BẢO TÍCH TẬP Trước khi giảng kinh, trước hết, tôi sẽ giới thiệu đơn giản về bộ kinh này. Bản kinh này là một hội của kinh Đại Bảo Tích; vì thế, trước hết, tôi sẽ giới thiệu sơ lược kinh Đại Bảo Tích. Ngẫu Ích đại sư nói: “Bắt đầu từ Hoa Nghiêm, kết thúc tại Đại Niết Bàn”. Câu nói này bao quát toàn bộ bốn mươi chín năm giảng kinh thuyết pháp của đức Thích Ca Mâu Ni Phật. “Hết thảy pháp tạng của hàng Bồ Tát đều gọi là Phương Đẳng”. Do vậy, phạm vi của Phương Đẳng hết sức rộng rãi.
“Phương” (方) là phương tiện. Trong nhà Phật thường nói: “Từ bi là gốc, phương tiện là cửa”. Hết thảy kinh pháp do đức Phật đã nói đều là pháp phương tiện, chứ pháp chân thật không thể nói ra được. Luận về chân thật, [kinh văn] thường nói: “Ngôn ngữ đạo đoạn, tâm hành xứ diệt” (Ngôn ngữ dứt bặt, tâm hành xứ diệt). Bởi thế pháp gì có thể nói ra được thì đều là pháp phương tiện cả.“Đẳng” (等) là bình đẳng, ý nghĩa giống với chữ “Bình Đẳng Giác” trong đề mục kinh Vô Lượng Thọ. Sở dĩ, chữ Phương Đẳng tượng trưng cho toàn bộ Phật pháp là vì xưa kia, Tổ Sư đại đức đem giáo pháp cả một đời của đức Thế Tôn chia thành năm thời kỳ. Phương Đẳng thuộc thời kỳ thứ ba, điều này có ý nghĩa đặc biệt.
“Nay trong pháp Đại Thừa, chọn riêng những pháp thích hợp với căn cơ Đại Thừa gọi là Hoa Nghiêm bộ”. Vì thế, đối tượng của kinh Hoa Nghiêm là người căn tánh thượng thượng thừa, bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân Đại Sĩ nói trong kinh đó chính là đương cơ của hội Hoa Nghiêm. Còn thì “dung thông Không - Hữu”, Không - Hữu bất nhị, tánh - tướng như một, những pháp được nói như thế thuộc về Bát Nhã bộ. Ấy là vì dùng trí tuệ chân thật thì mới có thể thấu hiểu rõ ràng chân tướng sự thật. “Khai Quyền hiển Thật” là Pháp Hoa. “Hiện diệt, bàn Thường, gọi là Niết Bàn bộ”. Duyên giáo hóa của Phật Thích Ca Mâu Ni đã hết, Ngài bèn thị hiện nhập Niết Bàn, lời di giáo tối hậu nhằm cảnh tỉnh chúng ta tu học phải dụng công ở chỗ nào. Những lời răn dạy ấy xếp vào bộ Niết Bàn. Đó là bốn giai đoạn của pháp Đại Thừa.
“Ngoài ra, dù Hiển hay Mật, hoặc đối Tiểu hiển Đại” (trái với Tiểu Thừa gọi là Đại Thừa) “hoặc dạy khắp nhân quả, sự lý, hạnh vị, trí đoạn của chư Phật, Bồ Tát” (Hạnh là tu hành, Vị là quả vị chứng đắc. Ví như năm mươi mốt địa vị Bồ Tát: Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng... đều thuộc vào Vị. “Trí đoạn”: Trí là trí huệ, Đoạn là đoạn phiền não, đoạn vô minh. Nói đến đoạn phiền não thì nhất định phải khai trí huệ; Định chỉ có công năng khuất phục phiền não, chẳng thể đoạn nổi phiền não) “đấy đều là bộ Phương Đẳng” (do đó, có thể biết là nội dung của Phương Đẳng rộng lớn phi thường), “chẳng giống như lời ngoa truyền trong đời, nói [thời Phương Đẳng] chỉ gồm tám năm”. Đấy là lời giảng thông thường về năm thời thuyết giáo, ý nghĩa hết sức hạn hẹp.
[Ý nghĩa của chữ] Phương Đẳng được giảng ở đây so ra chẳng giống với ý nghĩa được giảng trong tông Thiên Thai, [tôi giảng] chữ “Phương Đẳng” này bao gồm hết thảy kinh giáo đức Thế Tôn đã nói trong bốn mươi chín năm. Do kinh Đại Bảo Tích thuộc bộ Phương Đẳng nên trước hết, tôi giới thiệu sơ lược qua ý nghĩa của Phương Đẳng. Kinh Đại Bảo Tích có bốn mươi chín hội, gồm bảy mươi bảy phẩm. Mỗi một hội là một bộ kinh. Do đó, có thể biết là bộ kinh Đại Bảo Tích này giống hệt như tụ tập các kinh để tạo thành một bản hợp tuyển vậy. Nội dung kinh rất phong phú, người phiên dịch bộ kinh này cũng chẳng phải là một người, mà là do nhiều người phiên dịch. Vì thế, các sư có vị phiên dịch một hội, cũng có vị phiên dịch hai, ba hội. Trước đời Đường, chưa có ai tập hợp các kinh này lại, nên chúng được lưu hành từng bộ riêng rẽ. Kinh Vô Lượng Thọ của Tịnh tông chúng ta cũng nằm trong kinh Đại Bảo Tích, bản được phiên dịch vào thời Đường là hội thứ năm của kinh Đại Bảo Tích [mang tên] “Vô Lượng Thọ Hội”.
Ngài Bồ Đề Lưu Chí đến Trung Quốc vào thời Võ Tắc Thiên nhà Đường. Ngài thấy đại bộ phận kinh Đại Bảo Tích gần như đã được phiên dịch, nhưng chưa hoàn chỉnh. Vì thế, một lần nữa Ngài lại đem những bản kinh đã được người khác chú thích nhưng chưa phiên dịch, dịch toàn bộ ra. Vì vậy, Ngài dịch được ba mươi sáu hội, gồm ba mươi chín quyển. Sau đó, đem các bản dịch của những vị pháp sư khác (gồm hai mươi ba hội, tám mươi mốt quyển) gộp vào [bản do Ngài đã dịch], gạn lọc, tạo thành một bộ kinh Đại Bảo Tích hoàn chỉnh, tổng cộng bốn mươi chín hội, một trăm hai mươi quyển. Hiện thời chúng ta có thể xem [toàn bộ kinh Đại Bảo Tích] trong Đại Tạng Kinh, hình như ở Đài Loan kinh này cũng có bản lưu hành riêng. Đấy là toàn bộ kinh Đại Bảo Tích.
* Vì sao gọi là Bảo Tích?Có cách giải thích như sau: “Pháp bảo tích tập. Là pháp Đại Thừa thâm diệu nên gọi là Bảo”. Bốn mươi chín hội trong kinh này là bốn mươi chín bộ kinh, mỗi một bộ đều thâm diệu chẳng thể nghĩ bàn, vì thế sánh ví với “Bảo” (寳: của báu). “Vô lượng pháp môn gồm thâu trong đây” cho nên gọi là “Tích” (積), Tích nghĩa là tụ tập. “Bảo Tích Kinh Luận quyển một chép:” Bảo Tích Kinh Luận là sách chú giải kinh này, nhưng không còn toàn vẹn, chỉ có bốn quyển, ai chú giải cũng không biết, đã thất truyền, nhưng lời bàn luận được lưu trong Đại Tạng Kinh, sách này giải thích đơn giản đề mục kinh. Sách ấy viết: “Hết thảy các pháp sai biệt trong pháp bảo Đại Thừa được kinh này gom sạch, nên gọi là Bảo Tích”. Từ một câu này, chúng ta có thể hiểu đại khái ý nghĩa của đề mục kinh này. Giới thiệu giản lược về Phương Đẳng và kinh Đại Bảo Tích thuộc Phương Đẳng Bộ như thế.
III. GIỚI THIỆU SƠ LƯỢC DỊCH GIẢ: NGÀI BỒ ĐỀ LƯU CHÍ Vừa rồi, như đã giới thiệu, người phiên dịch kinh rất nhiều, chúng tôi không cần phải giới thiệu từng vị một, chúng tôi chỉ giới thiệu riêng mình vị tập đại thành[1] là ngài Bồ Đề Lưu Chí. “Bồ Đề Lưu Chí” (Bodhiruci) là dịch âm tiếng Phạn, “ở đây nói là Giác Ái”: phiên dịch thành tiếng Trung Quốc là Giác Ái. Bồ-Đề là Giác, Lưu Chí là Ái. “Người Nam Thiên Trúc”: lúc ấy, Ấn Độ được gọi là Thiên Trúc, Ngài là người Nam Ấn Độ. “Đến [Trung Hoa] vào thời Đường Võ Hậu”: Ngài đến Trung Quốc vào thời đại Võ Tắc Thiên. “Dịch Tam Tạng kinh”: Ngài là pháp sư dịch kinh.
“Sách Khai Nguyên Thích Giáo Lục quyển 9 ghi:” Thích Giáo Lục là mục lục kinh điển Phật giáo, trong mục lục có lời giới thiệu đơn giản cho mỗi kinh. “Sa-môn Bồ Đề Lưu Chí, vốn tên là Đạt Ma Lưu Chi”: Tên Ngài vốn là Đạt Ma Lưu Chi (Dharmaruci), Đạt-Ma là pháp, Lưu Chi nghĩa là “hy hữu”. Vì thế, Ngài vốn có tên là Pháp Hy Hữu. “Thiên Hậu đổi tên Ngài thành Bồ Đề Lưu Chí”: Thiên Hậu là Võ Tắc Thiên. Đại khái, bà Võ Tắc Thiên cho rằng ý nghĩa cái tên gốc của Ngài không hay, nên dốc tâm huyết ra, đổi tên cho Ngài, đổi thành Giác Ái. “Tiếng Đường là Giác Ái, người Nam Ấn Độ”. Tống Cao Tăng Truyện quyển 3 ghi: ‘Thích Bồ Đề Lưu Chí, người xứ Nam Thiên Trúc, thuộc dòng tịnh hạnh bà-la-môn, họ Ca-Diếp”. Nếu các vị muốn biết rõ chi tiết hơn một chút, hãy xem Tống Cao Tăng Truyện. Trong quyển 3 bộ Tống Cao Tăng Truyện có chép truyện Ngài.
IV. GIỚI THIỆU ĐẠI LƯỢC BẢN KINH NÀY Tiếp đây, tôi sẽ giảng về nội dung bản Phát Khởi Bồ Tát Thù Thắng Chí Nhạo Kinh, cũng chỉ giới thiệu đại lược.Kinh này thuộc quyển chín mươi mốt và chín mươi hai của kinh Đại Bảo Tích. Vì thế, kinh văn có hai quyển Thượng và Hạ. Trong kinh Đại Bảo Tích, quyển Thượng là quyển chín mươi mốt, quyển Hạ là quyển chín mươi hai. [Trong kinh Đại Bảo Tích ghi là] “Phát Thắng Chí Nhạo Hội đệ nhị thập ngũ, Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chí phụng chiếu dịch”. Trong đó, chữ “chiếu” chỉ thánh chỉ của Võ Tắc Thiên, Sư tuân mạng lệnh của Hoàng Đế mà phiên dịch. “Sách Duyệt Tạng Tri Tân đem nội dung toàn kinh chia ra làm mười lăm đoạn”: Duyệt Tạng Tri Tân là tác phẩm của đại sư Ngẫu Ích. Ngẫu Ích đại sư đem toàn bộ kinh này chia thành 15 đoạn, nội dung mỗi đoạn được giới thiệu như dưới đây.
Đoạn thứ nhất, “Phật tại Lộc Uyển” (Phật ở tại Lộc Uyển), đây chính là Lộc Dã Uyển, “dữ thiên tỳ-kheo, ngũ bách Bồ Tát câu” (và một ngàn tỳ kheo, năm trăm Bồ Tát cùng nhóm họp). Đoạn trên đây thuộc về Tự Phần và Chánh Tông Phần. Phần này trong Duyệt Tạng Tri Tân không nhắc đến, ở đây, vì giảng bộ kinh này, để tiện theo dõi, chúng tôi thêm vào, lại chia kinh thành ba phần lớn. Đoạn thứ nhất và đoạn thứ hai thuộc Tự Phần. Đoạn thứ nhất là Thông Tự, đoạn thứ hai là Phát Khởi Tự. Trong đoạn thứ hai: “Hữu chư Bồ Tát nghiệp chướng thâm trọng, nghi hoặc thoái chuyển, Di Lặc Bồ Tát úy vấn linh hỷ” (Có các Bồ Tát nghiệp chướng sâu nặng, nghi hoặc thoái chuyển. Di Lặc Bồ Tát hỏi han, an ủi khiến họ vui mừng). Vì thế, đây là đầu mối để hiểu được bộ kinh này sẽ nói những gì, đoạn này hết sức quan trọng đối với người học Phật chúng ta trong hiện tại. Chúng ta đích thực là các Bồ Tát ngu si nghiệp chướng sâu nặng đấy! Mọi người đã thọ Bồ Tát giới đều là Bồ Tát, dẫu đã thọ Bồ Tát giới nhưng vẫn rất ngu si! Đó chính là điều kinh này nhắc đến.
Đoạn thứ ba thuộc về Chánh Tông Phần. “Hữu lục thập nhân tùy khuyến nghệ Phật” (Có sáu mươi người theo lời khuyên đến chỗ Phật): Thuận theo lời khuyên bảo của Di Lặc Bồ Tát, sáu mươi người theo chân Di Lặc Bồ Tát đến gặp đức Thích Ca Mâu Ni Phật. Sau khi thấy được Phật, họ rất hổ thẹn, thiện căn phát khởi, “đầu địa bi lệ” (gieo mình xuống đất buồn khóc). Phật an ủi họ, bảo họ đứng dậy, thuật ác nghiệp phỉ báng pháp sư xưa kia của họ nên họ nhiều đời nhiều kiếp chịu khổ, tương lai khi nghiệp báo đó hết rồi, họ nhất định sẽ sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới. Do đấy có thể biết là bọn họ trong nhiều đời nhiều kiếp trước đã từng học pháp môn Tịnh Độ, đều niệm A Di Đà Phật, chỉ vì nghiệp chướng quá nặng nên chẳng thể vãng sanh, ở trong lục đạo chịu hết nỗi khổ.
Đoạn thứ tư: “Thời chư Bồ Tát tùy phát thập tam hoằng thệ, Phật tán ấn chi” (Khi ấy, các Bồ Tát liền phát mười ba hoằng thệ, Phật khen ngợi, ấn khả): Sáu mươi vị Bồ Tát ấy thật là hy hữu, ít người được như vậy, bọn họ nghe Phật chỉ dạy bèn chân chánh sám hối, quay đầu sửa lỗi, đổi mới, phát mười ba hoằng thệ. Đức Phật nghe xong rất khen ngợi họ. Đoạn thứ năm: “Di Lặc nhân vấn mạt thế Bồ Tát thành tựu kỷ pháp, an ổn đắc thoát” (Nhân đấy, Di Lặc Bồ Tát bèn hỏi trong đời mạt, Bồ Tát thành tựu mấy pháp thì được an ổn độ thoát). Câu hỏi này rất trọng yếu. Thời kỳ Mạt Pháp chính là thời đại của chúng ta. Hiện tại, chúng ta nên thành tựu bao nhiêu pháp thì mới có thể an ổn thoát ly lục đạo luân hồi, thoát ly biển khổ sanh tử.
Đoạn thứ sáu, “Phật đáp dĩ nhị chủng, tứ pháp” (Phật đáp dùng hai loại bốn pháp). Hai loại “bốn pháp” này nằm trong kinh văn từ đoạn thứ sáu đến đoạn thứ bảy. Trong loại thứ nhất, “chẳng tìm lỗi người khác” là điều thứ nhất; “cũng chẳng nêu ra tội của người khác” là điều thứ hai; “lìa lời thô lỗ, keo kiệt, người ấy sẽ giải thoát”. Trong thời kỳ Mạt Pháp, bốn điều này trọng yếu nhất, nhất định phải tuân thủ, phải làm cho được. Phật nói bốn pháp ấy xong, lại nói ra bốn pháp khác, đó là đoạn thứ bảy. “Hãy bỏ sự biếng nhác” là điều thứ nhất; “xa lìa các ồn náo” là điều thứ hai; ưa thích chỗ náo nhiệt là điều chướng ngại rất lớn. “Tịch tĩnh, thường tri túc”. Vâng giữ bốn pháp này “người ấy sẽ giải thoát”. Đoạn này dạy chúng ta tu hành trong thời kỳ Mạt Pháp phải có đủ hai loại “bốn pháp” này, tức là đủ tám pháp mới có thể yên ổn tu học đạt hiệu quả, đạt được mục tiêu tu học.
Đoạn thứ tám, “thứ minh vô hy vọng tâm hành pháp thí thời, thành nhị thập lợi, hựu nhị thập lợi” (tiếp đó, kinh dạy lúc hành pháp thí, tâm không mong cầu sẽ thành tựu hai mươi điều lợi, lại thành tựu hai mươi điều lợi khác nữa). Hai thứ “hai mươi điều lợi” này cộng thành bốn mươi thứ lợi ích, phải dùng tâm không mong cầu để tu hành pháp bố thí mới có thể đạt được! Đoạn thứ chín thuyết minh các lỗi lầm, ác nghiệp trong thời kỳ Mạt Pháp, hoàn toàn là nói về những hiện trạng xã hội cũng như tình trạng của bọn người tu hành chúng ta. Đọc xong đúng là rét buốt tận xương! Đức Thế Tôn cách xa chúng ta ba ngàn năm, từ ba ngàn năm trước Ngài đã thấy rõ ràng tình trạng tu hành hiện tại của chúng ta, thật có thể nói là nhân duyên quả báo chẳng sai sót mảy may!
Đoạn thứ mười nói về “huệ hạnh Bồ Tát dữ sơ nghiệp Bồ Tát bất đồng chi tướng” (tướng trạng bất đồng giữa huệ hạnh Bồ Tát và sơ nghiệp Bồ Tát). Chữ “huệ hạnh Bồ Tát” này chúng ta phải hiểu rõ, nếu không hiểu được nhất định sẽ không thể học theo họ được! Thế nào là “huệ hạnh?” Trí huệ đã mở mang, trong nhà Thiền gọi là “đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh”, trong pháp Đại Thừa ta thường gọi họ là Pháp Thân Đại Sĩ. Pháp Thân Đại Sĩ mới là huệ hạnh Bồ Tát. Cũng như những bậc thường được xưng tụng là “phá một phần vô minh, chứng một phần Pháp Thân”, người như vậy mới là huệ hạnh Bồ Tát. Chưa đạt đến địa vị ấy thì chẳng phải là huệ hạnh Bồ Tát. Do những hành vi, biểu hiện của huệ hạnh Bồ Tát rất đặc biệt khác lạ, chúng ta chẳng thể học đòi nổi. Nếu học theo, họ thì sanh lên trời, còn chúng ta bị đọa địa ngục. Đức Phật giảng rất rõ ràng, rất minh bạch điểm này.
Đoạn thứ mười hai thuyết minh “sơ nghiệp Bồ Tát ưng đương quán sát lợi dưỡng chi quá” (sơ nghiệp Bồ Tát phải nên quán sát lỗi lầm của lợi dưỡng). Sơ Nghiệp là sơ học Bồ Tát, chúng ta hiện đang thuộc giai đoạn này, nhất định phải hiểu rõ họa hại của lợi dưỡng, chỉ cần vướng chút lợi dưỡng thì chẳng những đạo nghiệp không thể thành tựu mà nhất định còn bị nó lôi vào A Tỳ địa ngục! Học Phật chẳng thành Phật, ngược lại bị đọa vào A Tỳ địa ngục, đấy chẳng phải là điều Phật, Bồ Tát mong trông thấy. Nhưng trong thời kỳ Mạt Pháp, người như vậy rất ư là nhiều! Bởi vậy, đoạn kinh văn thuyết minh họa hại của lợi dưỡng này rất dài. Đoạn thứ mười hai là “diệc đương quán sát hội náo quá hữu nhị thập, thế ngữ quá hữu nhị thập” (cũng nên quán sát ồn náo có hai mươi lỗi, lời lẽ thế gian có hai mươi lỗi). Đến phần sau tôi sẽ giảng chi tiết. “Thùy miên quá hữu nhị thập, chúng vụ quá hữu nhị thập” (Ngủ nghê có hai mươi lỗi, các việc có hai mươi lỗi). Chữ “chúng vụ” ở đây chỉ các thứ sự việc chẳng liên quan đến việc tu hành, hiện thời rất phổ biến vậy!
Mọi người quên hết cả rồi! Bách Trượng đại sư đã từng nói: “Phật môn do vô sự mà hưng vượng”. Đạo tràng thế nào là hưng vượng? Vô sự gọi là hưng vượng. Sự việc quá nhiều, nhang đèn tưng bừng, tín đồ quá đông, đấy là tướng suy sụp của Phật môn chứ chẳng phải là tướng hưng thịnh. Vì sao vậy? Chẳng có một người nào thành tựu hết! Người tuy đông nhưng không có một người nào khai ngộ, không có ai chứng quả, thậm chí không một ai có thể vãng sanh thì thịnh vượng ở chỗ nào? Chúng ta phải nhận thức rõ ràng điều này! Trong đoạn thứ mười ba, Phật dạy “bất tu chư hạnh, bất đoạn phiền não, bất tập thiền tụng, bất cầu đa văn, phi xuất gia giả” (chẳng tu các hạnh, chẳng đoạn phiền não, chẳng tập thiền tụng, chẳng cầu đa văn thì chẳng phải là người xuất gia). Đấy là xuất gia chỉ có hình thức, chứ thật sự ra chư Phật Như Lai chẳng thừa nhận kẻ ấy là đệ tử xuất gia.
Đoạn thứ mười bốn thuyết minh hý luận có hai mươi lỗi họa. Cuối phần Chánh Tông, kinh văn thuyết minh “phát mười thứ tâm có thể sanh về thế giới Cực Lạc”. Vì thế, đến cuối cùng, bộ kinh này cũng dẫn dắt về Cực Lạc. Chúng ta mong quyết định được sanh về Tịnh Độ của đức Di Đà ngay trong một đời này nên đối với chúng ta, bộ kinh này cũng trọng yếu phi thường! Cuối cùng, đoạn thứ mười sáu là Lưu Thông Phần. Trong sách Duyệt Tạng Tri Tân của Ngẫu Ích đại sư chỉ giảng đến đoạn thứ mười lăm, sau đấy lại có một đoạn là phần Lưu Thông của kinh này. Trên đây tôi đã nói cho quý vị biết sơ lược đại ý kinh này…
MỤC LỤC: Phát Khởi Bồ Tát Thù Thắng Chí Nhạo Kinh Lược Giảng (Phần 1)
Giảng Kinh Duyên Khởi
Bảo Tích – Pháp Bảo Tích Tập
Giới Thiệu Sơ Lược Dịch Giả: Ngài Bồ Đề Lưu Chí
Giới Thiệu Đại Lược Bản Kinh Này
Lược Giải Kinh Văn
Phát Khởi Bồ Tát Thù Thắng Chí Nhạo Kinh Lược Giảng (Phần 2) Phát Khởi Bồ Tát Thù Thắng Chí Nhạo Kinh Lược Giảng (Phần 3) Phát Khởi Bồ Tát Thù Thắng Chí Nhạo Kinh Lược Giảng (Phần 4)