Duyên Khởi Của Pháp Hội Giảng Kinh Tất cả mọi nơi đều là đạo tràng, Pháp Hội, cho nên bất cứ lúc nào và bất cứ ở đâu, chúng ta cũng đều có thể giảng Kinh thuyết Pháp, tu tập, hành trì được cả. Mọi lúc đều có thể tu hành, mọi chốn đều là nơi để dụng công. Tu hành thì không nên phân biệt nơi chốn, chẳng nên phân biệt xa gần; đến nơi nào cũng thấy như nhau Ngoài ra, cũng không nên phân biệt về sự tốt xấu của Pháp Hội. Nếu ở bất cứ nơi nào chúng ta cũng có thể giảng Kinh thuyết Pháp, nghiên cứu giáo lý Phật Ðà, thì chúng ta sẽ có thể "kết thành một đoàn, luyện thành một khối." Cho nên, tập được thói quen đến đâu cũng nghiên cứu Phật Pháp là điều quan trọng nhất vậy. Chủ yếu của việc nghiên cứu Phật Pháp là gì? Ðó là cắt đứt vọng tưởng, thâu nhiếp thân tâm. Nếu chúng ta không mơ tưởng về quá khứ, hiện tại hoặc vị lai, mà chỉ một lòng một dạ nghiên cứu Phật Pháp, thì chúng ta sẽ không còn phiền não, khổ đau.
Tại sao chúng ta có phiền não ? Bởi vì chúng ta không có được cái nhìn thấu suốt, không nỡ buông bỏ, cứ cho rằng việc này quan trọng, việc kia cần thiết, do vậy mà sanh lòng chấp trước. Một khi đã có tâm chấp trước thì phiền não sẽ theo đó mà nảy sinh. Cho nên, chúng ta nghiên cứu Phật Pháp thì cần phải dẹp bỏ tâm chấp trước. Hôm nay là ngày đầu tiên chúng tôi giảng Kinh ở đây. Sau này, khi quý vị vào chỗ ngồi thì người hàng sau nên ngồi xen kẽ đối với ngƣời hàng trước, để người trước người sau đều có thể thấy rõ, khỏi cản trở tầm nhìn của nhau. Ðó là cách ngồi; còn đứng thì như thế nào ? Cứ hai người đứng một hàng, hàng này cách hàng kia một khoảng vừa đủ để có thể cúi lạy được. Vừa rồi chúng ta có niệm Lục Tự Ðại Minh Chú (Án Ma Ni Bát Di Hồng). Bồ Tát Ðịa Tạng rất thích mọi người niệm chú Lục Tự Ðại Minh này. Nếu quý vị trì niệm Lục Tự Ðại Minh Chú thì quý vị cầu xin bất cứ điều gì, Bồ Tát Ðịa Tạng cũng sẽ giúp cho qúy vị được toại nguyện. Sự cảm ứng linh thiêng của Ngài Ðịa Tạng không thể nào nói hết được, điều này trong Kinh cũng có đề cập đến. Vì thế, trong các buổi giảng Kinh, chúng ta đều nên luôn luôn niệm Lục Tự Ðại Minh Chú. Ðây là một Thần Chú tối nhiệm mầu; công năng của Thần Chú này thật không thể nghĩ bàn!
KỆ HỒI HƯỚNG
Nguyện đem công đức này,
Trang nghiêm Phật tịnh độ;
Trên báo bốn ân nặng,
Dưới cứu ba đường khổ.
Nếu có kẻ thấy nghe,
Tất phát Bồ Đề tâm
Khi mãn báo thân này
Đồng sanh nước Cực Lạc.
---o0o---
BÌA SAU SÁCH
Địa Tạng Vương Bồ Tát đời đời kiếp kiếp đều rất hiếu thảo với cha mẹ, do đó bộ Kinh Địa Tạng này chính là một bộ kinh về đạo hiếu (hiếu kinh) của Phật Giáo. Hiếu là nền tảng của con ngƣời. Làm con mà chẳng hiếu thuận với cha mẹ tức là trọn một đời chưa chu toàn trách nhiệm làm người; vì sao ư? Cha mẹ sinh ra ta, nuôi nấng ta, nếu ta được lớn khôn mà chẳng biết báo đáp công ơn, thì chính là chưa tròn nghĩa vụ làm người vậy.
Hiếu được chia làm bốn loại: Tiểu hiếu, Đại hiếu, Viễn hiếu và Cận hiếu.
Thế nào gọi là tiểu hiếu? Tiểu hiếu là hiếu đạo trong phạm vi gia đình, tức là chỉ hiếu thảo với cha mẹ ruột của mình, chứ không hiếu thảo với tất cả mọi người, chưa có được lòng hiếu thảo bao la, quảng đại. Hiếu quảng đại là gì? Đó chính là đại hiếu, hiếu thuận với khắp thiên hạ, xem tất cả các bậc cha mẹ trên đời như là cha mẹ của mình. Đây gọi là hiếu thuận với tất cả mọi người. Thế nhưng, đại hiếu vẫn chưa phải là hiếu thuận chân chánh. Thế nào là hiếu thuận chân chánh? Chỉ khi nào quý vị thành Phật mới gọi là có lòng hiếu thảo chân chánh, mới là chân hiếu. Đây là một loại hiếu thảo đích thực, rốt ráo, vượt hẳn bốn loại hiếu kia.
Thế nào gọi là cận hiếu? Noi gương những người con chí hiếu thời cận đại, học cách hiếu thuận cha mẹ của họ, đó gọi là cận hiếu. Viễn hiếu là gương hiếu thảo được muôn thế hệ truyền tụng và noi theo; còn cận hiếu là sự hiếu thuận đương thời. Cận hiếu cũng có thể gọi là tiểu hiếu, mặc dù vẫn có vài điểm bất đồng. Mục Lục
Quyển Trung
Duyên Khởi Của Pháp Hội Giảng Kinh
I) Nhân Duyên Nảy Sanh Giáo Pháp (Giáo Khởi Nhân Duyên)
II) Phân Loại Theo Tạng Thừa (Tạng Thừa Sở Nhiếp)
III) Nêu Rõ Tông Chỉ Kinh (Biện Ðịnh Tông Chỉ)
IV) Giải Thích Đề Mục Kinh (Tiêu Thích Danh Ðề)
V) Dịch Giả Truyền Dịch (Truyền Dịch Sử Giả)
VI) Giảng Giải Kinh Văn (Biệt Giải Văn Nghĩa)
Quyển Thượng
Phẩm Thứ Nhất - Thần Thông Trên Cung Trời Ðao Lợi
Phẩm Thứ Hai - Phân Thân Tập Hội
Phẩm Thứ Ba - Quán Chúng Sanh Nghiệp Duyên
Phẩm Thứ Tư - Nghiệp Cảm Của Chúng Sanh Ở Cõi Diêm Phù Quyển Trung
Phẩm Thứ Năm - DANH HIỆU CỦA ÐỊA NGỤC
Phẩm Thứ Sáu - NHƯ LAI TÁN THÁN
Phẩm Thứ Bảy - LỢI ÍCH CHO CẢ KẺ CÕN NGƯỜI MẤT
Phẩm Thứ Tám - CÁC VUA DIÊM LA VÀ QUYẾN THUỘC KHEN NGỢI
Phẩm Thứ Chín - XƯNG DANH HIỆU CHƯ PHẬT
Quyển Hạ
Phẩm Thứ Mười - NHÂN DUYÊN VÀ SỰ SO SÁNH CÔNG ÐỨC BỐ THÍ
Phẩm Thứ Mười Một - ĐỊA THẦN HỘ PHÁP
Phẩm Thứ Mười Hai - THẤY, NGHE ĐỀU ĐƯỢC LỢI ÍCH
Phẩm Thứ Mười Ba - GIAO PHÓ CHO TRỜI NGƯỜI